QUY LUẬT CHI PHỐI NGỮ ĐIỆU CỦA TIẾNG HÀN

TIẾNG HÀN SƠ CẤP 2

QUY LUẬT CHI PHỐI NGỮ ĐIỆU CỦA TIẾNG HÀN

Để sử dụng thuần thục được quy tắc chi phối ngữ điệu tiếng Hàn, trước hết cần nhận diện rõ hai nhóm phụ âm sau đây.

  • Nhóm đọc lên giọng (gọi chung là nhóm phụ âm đặc biệt): Bao gồm các phụ âm bật hơi (ㅋ, ㅌ, ㅍ, ㅊ), phụ âm căng (ㄲ, ㄸ, ㅃ, ㅉ) . phụ âm xát (ㅅ, ㅆ, ㅎ)
  • Nhóm đọc xuống giọng (gọi chung là nhóm phụ âm thường): Tất cả các phụ âm còn lại (ㄱ, ㄷ, ㅂ, ㅈ, ㅁ, ㄴ, ㄹ, ㅇ).

Nguyên tắc ngữ điệu tiếng Hàn: Chìa khoá của ngữ điệu chính là các dấu khoảng cách, đánh dấu bắt đầu vào một cụm mới. Theo đó đối với cụm được bắt đầu bằng phụ âm thường thì sẽ đọc xuống giọng ở đầu mỗi cụm. Còn cụm được bắt đầu bằng phụ âm đặc biệt sẽ lên giọng ở đầu mỗi cụm. Những âm tiết còn lại trong cụm đa phần đọc lên giọng.

 

Ví dụ về các chuỗi cụm từ bắt đầu bằng âm thường

우리  가족은  모두  네  명입니다. 아버지, 어머니, 동생  그리고  저입니다.

(Gia đình tôi có tất cả bốn người. Đó là ba, mẹ, em tôi và tôi)

Đây là một câu giới thiệu bản thân quen thuộc mà sinh viên được học từ năm nhất. Khi nghe một người học Việt Nam đọc hai câu trên, các giáo viên Hàn Quốc thường nhận xét ngữ điệu không tự nhiên, vì giọng cao quá. Thật ra, không hẳn là do giọng người Việt cao (Ở những nốt cần đọc cao thì người Hàn thậm chí đọc còn cao hơn người Việt), mà là do người học đọc cao giọng ở chỗ cần phải xuống giọng (우, 가, 모, 네 và 아, 어, 동, 그, 저)

Chỉ với nguyên tắc xuống giọng ở đầu mỗi cụm nếu cụm được bắt đầu bằng phụ âm thường, người học có thể cải thiện độ tự nhiên của các câu thoại, tránh được tình trạng “Việt Nam hoá” tiếng Hàn. Không những thế, còn thể hiện rõ được ý tứ của các câu nói khác nhau do dấu khoảng cách quyết định. Các ví dụ khoảng cách khác nhau dẫn đến ngữ nghĩa khác nhau có thể kể đến như sau:

  • 어머니가   방에  들어가십니다.    Xuống giọng ở 어, 방, /드/(들)

(Mẹ tôi đi vào phòng)

  • 어머니  가방에  들어가십니다. Xuống giọng ở 어, 가, /드/

(Mẹ tôi đi vào cái túi xách)

TUYỂN SINH LỚP TIẾNG AHFN SƠ CẤP 1

 

Hay trong ví dụ:

  • 잘못했습니다(Tôi sai rồi).            xuống giọng ở 잘
  • 잘   못했습니다(Tôi không làm được). xuống giọng ở 못

 

Ví dụ về các chuỗi cụm từ bắt đầu bằng âm đặc biệt

학교  식당에서  초밥을  시켰습니다.         Lên giọng ở 학, 식, 초, 시

(Tôi gọi món sushi trong canteen trường.)

차라리  친구랑  탁구를  치는  게  좋아.       Lên giọng ở 차, 친, 탁, 치

(Thà là tôi đi đánh bóng bàn với bạn tôi)

 

Một số câu có ngữ điệu phức hợp

처음에는  그  사람이  싫었는데  같이  지내다 보니 정이  들었어요.

(Ban đầu tôi ghét anh ta lắm, nhưng cứ gặp riết rồi cũng nảy sinh tình cảm.)

Lên giọng ở 처, 사, /시/(싫), xuống giọng ở 그, 같, 지, 보, 정, /드/.

 

집이  가까우니까  버스를  타지  말고  걸어가자.

(Nhà tôi gần đây nên chúng ta đi bộ đi, đừng đi xe buýt)

Xuống giọng ở 집, 가, 말, /거/(걸), lên giọng ở 버, 타.

 

MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ

  1. Cụm một âm tiết: Một số trường hợp hai cụm được bắt đầu bằng âm thường đứng cạnh nhau, tuy nhiên một trong hai cụm là cụm một âm tiết. Lúc này, đọc xuống giọng ở một trong hai cụm, thường là cụm cần nhấn mạnh hơn.

 지우개는  거인데요.                    Xuống giọng ở 지, 제

(Cái cục gôm đó là của tôi mà.)

교실에는  명의 학생이 있어요.      Xuống giọng ở 네

(Trong phòng có bốn sinh viên.)

 못했습니다.                                      Xuống giọng ở 못

(Tôi không làm được.)

 

  1. Hai cụm đứng cạnh nhau có quan hệ chặt chẽ với nhau thì cụm sau không đọc xuống giọng. Trong ví dụ sau vẫn đọc lên giọng ở âm tiết 가.

책도 여러 가지가 있는데 어떤 걸로 드릴까요?

(Sách cũng có nhiều loại, anh lấy loại nào đây?)

 

  1. Một cụm gồm nhiều từ có nghĩa ghép với nhau thì vẫn xuống giọng ở đầu mỗi từ. Ví dụ: 사회주의, 자동이체, 개인주택v…

 

  1. Một số cụm ba âm tiết cuối mệnh đề vẫn đọc lên giọng ở đầu cụm, kể cả đó là phụ âm thường. Về phần này, các nghiên cứu trước đó về ngữ điệu của Jun (1993) hay Jung (2002) đã đúc kết ra rằng hai âm tiết cuối câu đều được đọc thấp giọng. Có lẽ đó là lí do âm tiết trước nó được đọc cao giọng hơn. Ví dụ:

책꽂이하고 공책을 주세요(Làm ơn đưa tôi cái kẹp sách và quyển vở)

머니까/ 오토바이로 갑시다. (Xa lắm, chúng ta đi bằng xe đạp đi)

 

  1. Từ ‘일’ (một) được bắt đầu bằng phụ âm thường nhưng trong nhiều trường hợp vẫn được đọc lên giọng. Có lẽ là để phân biệt với 이 (hai). Từ ‘사’ (bốn) là phụ âm xát nhưng trong một số trường hợp vẫn được đọc xuống giọng, có lẽ là để phân biệt với 삼 (ba). Ví dụ:

사학년 학생이 일학년 학생을 위해서 큰 파티를 했습니다.

 

GIẢNG DẠY NGỮ ĐIỆU TIẾNG HÀN CHO NGƯỜI HỌC VIỆT NAM

Để tìm được phương án giảng dạy ngữ điệu phù hợp, có lẽ người dạy cần đi qua hai bước. Bước một là phổ biến quy luật về ngữ điệu của tiếng Hàn (như đã nói trên), bước hai là tổ chức cho học viên điều chỉnh ngữ điệu theo quy luật đã học. Đối với bước thứ hai này người dạy có thể tuỳ vào khả năng sáng tạo và tình hình số lượng học viên trong lớp để có phương pháp phù hợp. Phương pháp của Je Gal-Myung (2010) có thể là một phương pháp hay, với việc cho học viên ghi âm lời thoại của mình, so sánh với lời thoại do người bản xứ đọc, nhận ra sự khác nhau, vẽ đường cong biểu diễn ngữ điệu, điều chỉnh ngữ điệu của mình v.v…

Trong phần này, tôi chỉ xin trình bày cụ thể về bước một, tức là cách thức giúp học viên nắm được các Quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn và cách áp dụng vào trong các chuỗi lời thoại thực tế. Nhìn chung có những điểm người dạy cần nắm sau đây:

  1. Giới thiệu Quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn: áp dụng để phân biệt các nhóm âm giống nhau.

Trong tiếng Hàn, ngữ điệu không chỉ quyết định đến sự hay dở khi nói, mà trong nhiều tình huống, nó còn liên hệ chặt chẽ với kĩ năng phát âm, quyết định đến việc nói chuẩn giúp người bản xứ hiểu được, và thậm chí quyết định cả việc “nghe chuẩn” để hiểu được chính xác ý của người nói. Chẳng hạn như trong hai câu sau:

  • 발이 아파요. (Chân tôi bị đau)
  • 팔이 아파요. (Tay tôi bị đau)

Dù giáo viên có cố gắng giải thích cách mấy về sự khác nhau giữa hai phụ âm ㅂ và ㅍ (về mức độ bật hơi), thì người học cũng sẽ khó đạt được mức yêu cầu về cả kĩ năng đọc lẫn kĩ năng nghe. Điều tương tự xảy ra đối với các nhóm âm (ㄱ, ㅋ, ㄲ); (ㄷ, ㅌ, ㄲ), (ㅈ, ㅊ, ㅉ) v.v… Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, chỉ cần giải thích cho người học Quy luật chi phối ngữ điệu, tức là phụ âm nào đọc lên giọng, phụ âm nào đọc xuống giọng, thì ngay lập tức người học có thể nhận diện tốt được cách phân biệt những nhóm phụ âm này. Trong hai ví dụ trên, 발 đọc xuống giọng (như thanh huyền), trong khi 팔 đọc lên giọng (như thanh ngang).

Với phần này, người dạy có thể đưa ra một loạt những ví dụ có cặp phụ âm giống nhau để học viên phân biệt. Ví dụ:

  • 방이 커요. (Căn phòng rất to.)
  • 빵이 커요. (Ổ bánh mì rất to.)

Hay:

  • 달이 예쁘네요. (Trăng đẹp quá.)
  • 탈이 예쁘네요. (Mặt nạ đẹp quá.)
  1. Giới thiệu Quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn: áp dụng để tránh việc đọc “ngang phè”

Như đã nói ở trên, ngữ điệu tiếng Hàn vốn được mặc định là một phạm trù kinh nghiệm. Tức là người học phải tự mò mẫm cách đọc cho riêng mình thông qua việc để ý từng câu nói của người Hàn để bắt chước theo. Điều này dẫn đến hệ quả là có nhiều người đã tiếp xúc với tiếng Hàn lâu năm rồi vẫn không thể đọc tiếng Hàn một cách tự nhiên, đọc theo kiểu “Việt Nam hoá”, hoặc với những câu thường nghe thì có thể nói theo một cách tự nhiên, nhưng gặp câu lạ thì sẽ lộ ngay lỗi ngữ điệu.

Nguyên nhân là, do đặc thù của tiếng mẹ đẻ, người Việt khi nói tiếng Hàn thường có xu hướng tuỳ tiện thêm dấu vào mỗi từ, hoặc theo cách an toàn hơn là đọc “ngang phè” như tiếng Việt không dấu.

Vì ngữ điệu có quy luật chung, nên mọi đoạn văn, bài viết, câu nói trong sách đều có thể là nguồn tài liệu cho học viên thực tập cách đọc lên xuống của từng vị trí trong câu. Người dạy cần giới thiệu quy luật chung để giúp cho học viên nắm bắt được cách áp dụng vào thực tế. Có thể yêu cầu học viên dùng một cây bút chì, đánh dấu huyền (thể hiện âm Low) và đánh dấu ngang bên trên mỗi âm tiết đứng đầu cụm.

  1. Giới thiệu Quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn: áp dụng để tránh việc đọc các âm tiết có phụ âm cuối là /k, t, p/

Một lỗi khác của người Việt là đọc dấu sắc quá rõ, đặc biệt với những từ có phụ âm cuối là /k, t, p/ như trong bảng ví dụ dưới đây. Nguyên nhân là do trong tiếng Việt, những âm tiết có phụ âm cuối là c, p, t vốn chỉ có thể thêm dấu sắc hoặc dấu nặng. (Chẳng hạn, thấp hoặc thập, bức hoặc bực, mít hoặc mịt v.v…). Vì vậy mà nhiều học viên khi học tiếng Hàn đối với các âm tiết có câu trúc tương tự thì có xu hướng gắn thêm dấu sắc cho các âm tiết này. Hoặc nhiều trường hợp người học còn gắn thêm dấu nặng vào những phụ âm đặc biệt, vốn cần phải lên giọng.

Để học viên loại bỏ thói quen này, cần cho học viên thực hành nhuần nhuyễn để phân biệt cách đọc của các từ thuộc hai nhóm dưới đây. Ngoài ra, cần nhắc nhở việc lên giọng (đối với các âm đặc biệt) không đồng nghĩa với việc phải đọc thành dấu sắc. Vì người Hàn ngay cả khi lên giọng vẫn đọc thanh ngang (không dấu).

Ví dụ về âm thường 

(Xuống giọng)

국제, 국적, 곳곳, 돕기, 덥다, 답장 

박사, 밥을, 북쪽, 빛이, 줍다, 젓가락, 잡지, 좁아.

밉다, 맥주, 높다, 납부, 약국, 욕심, 있다

Ví dụ về âm đặc biệt 

(Lên giọng)

콧대기, 꽃이, 꽃집, 껍질, 똑바로, 탁구, 특징, 

뽑다, 폭포, 책상, 착해요, 춥다, 첫사랑, 쪽지

식당, 속도, 숟가락, 학생, 합격, 했다

  1. Giới thiệu quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn: Một số điểm cần lưu ý khác

Theo kinh nghiệm của tôi, việc phổ biến quy luật chi phối ngữ điệu tiếng Hàn cho người học ngay từ buổi đầu học phát âm là rất cần thiết. Vì một khi học viên đã quen thuộc với cách lên xuống giọng của riêng mình thì sẽ rất khó để sửa lại theo ngữ điệu đúng. Ví dụ nhiều trường hợp sinh viên năm ba, năm tư vẫn đọc lên giọng từ 집 trong câu 집에 가요. Và phần lớn các trường hợp này là không thể sửa cho người học đọc xuống giọng từ này được, vì cách đọc truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức của người học.

Ngoài ra, việc giảng dạy ngữ điệu tiếng Hàn nên tập trung vào phần quy luật chung, nghĩa là xuống giọng ở đầu cụm bắt đầu bằng âm thường và lên giọng ở cụm bắt đầu bằng âm đặc biệt. Còn các trường hợp ngoại lệ nên giải thích từ từ trong quá trình học, khi có phát sinh tình huống liên quan. Vì việc đưa ra tất cả các trường hợp ngoại lệ ngay trong những ngày đầu làm quen với tiếng Hàn sẽ khiến cho học viên cảm thấy rối rắm, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tự tin khi nói.

 

́T LUẬN

Đúng như Jung Myung-Sook đã nói, quy luật ngữ điệu tiếng Hàn vô cùng đơn giản. Nhưng khác với mô hình mà Jung đã đưa ra, có một quy luật khác đơn giản hơn. Đó là chỉ cần để ý âm tiết đầu tiên của mỗi cụm từ, xuống giọng khi nó là âm thường, và lên giọng khi nó là âm đặc biệt. Nắm được quy luật này, người học không cần phải dò dẫm trong công cuộc luyện nói tự nhiên như người bản xứ. Một người học trình độ sơ cấp cũng có thể nói tự nhiên như người Hàn nếu áp dụng được các quy luật này.

Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là mọi người học đều có thể nói tự nhiên như người Seoul chỉ với chiếc chìa khoá này. Trong tám năm thực hành giảng dạy ngữ điệu cho sinh viên ngành Hàn Quốc, tôi nhận ra sự phân hoá trong khả năng áp dụng của các học viên. Luôn có một nhóm rất nhanh nhạy, ngay lập tức điều chỉnh được ngữ điệu trong tất cả các câu thoại (kể cả câu thoại mới bắt gặp lần đầu). Nhóm thứ hai hiểu được quy luật, nhưng chỉ có thể áp dụng được khi kiên trì luyện tập, và thỉnh thoảng vẫn bị sai. Nhóm thứ ba thuộc diện không thể chỉnh sửa vì không có khả năng bắt chước ngữ điệu, hoặc chỉ có thể bắt chước ở một cụm ngắn chứ không thể điều chỉnh ngữ điệu trong một câu dài. Việc giảng dạy ngữ điệu cũng tuỳ thuộc vào từng nhóm đối tượng. Với nhóm thứ ba, việc quá nhấn mạnh vào ngữ điệu chỉ càng khiến cho học viên không thể tập trung vào việc luyện nói. Điều này vô tình làm mất đi khả năng nói lưu loát (nếu có) ở học viên.

Tóm lại, việc giảng dạy ngữ điệu là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên người dạy cũng cần hiểu ngữ điệu tự nhiên không phải là yêu cầu bắt buộc với mọi học viên. Vì còn phải tuỳ thuộc vào khả năng về ngôn ngữ, và đôi khi là khả năng nắm bắt nhịp điệu (âm nhạc) của mỗi người.

XEM THÊM : TỪ VỰNG TIẾNG  HÀN VỀ BỆNH VIỆN 

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *